Lời của BBT Champaka.info: “Sự du nhập Hồi Giáo vào Champa” của Jashaklikei là bài khảo luận có nội dung rất nghiêm túc và có giá trị cao về mặt khoa học, đáng được đăng tải trên web Champaka.info. Tuy nhiên, trong bài khảo luận này có một vài sơ xót mà chúng tôi cần nêu ra ở đây để làm trong sáng lại kho tàng di sản văn hóa tinh thần của dân tộc Chăm.
1). Thiếu xót về nguồn tư tiệu
a). Nguồn tư liệu Hồi Giáo đến Champa
Trong bài viết liên quan đến sự du nhập Hồi Giáo vào Champa, tác giả chỉ trích dẫn bài viết của Bá Trung Phụ (2007) và Sakaya (2013) để rồi quên đi cả khối lượng bài viết mà các nhà khoa học đã đăng tải từ cuối thế kỷ thứ XIX. Sau đây là danh sách:
AYMONIER, E., Légendes historiques des Chams, in Excursions et Reconnaissances XIV‑32 (1890), pp. 145‑206
CABATON, A., Les Chams musulmans de l'Indochine Française, in Revue du Monde Musulman II (1907), pp. 129‑180
RAVAISSE, P., Deux inscriptions çoufiques du Campa, in Journal Asiatique XX (1922), pp. 247‑289
MASPERO, G., Le Royaume de Champa, Paris, 1928
NER, M., Les Musulmans de l'Indochine française, in BEFEO XLI (1941), pp. 151‑200
RONDOT, P., Note sur les Cham bani du Binh Thuan (centre Viêt‑Nam), in Revue des Etudes Islamiques 1949
MANGUIN, P‑Y., L'introduction de l'Islam au Campa, in BEFEO LXVI (1979), pp. 255‑287.
a). Nguồn tư liệu về mối liên hệ giữa Champa và Mã Lai
Đây là nguồn tư liệu quan trọng về mối liên hệ giữa Champa và Mã Lai mà các nhà khoa học đã đăng tải kể từ năm 1951 nhưng không được nhắc đến trong bài viết của Jashaklikei. Đây là phần thiếu xót cần chỉnh đốn lại:
MARRISON, G. E., “The Chams of Malacca”, in Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society XXIV‑1 (1951), pp. 90‑98
LOMBARD, D., «Le Campâ vu du Sud», in BEFEO LXXVI, 1987, pp. 311-317 ; Le Carrefour javanais. Essai d’histoire globale, Paris, 1990)
PO DHARMA, Akayet Inra Patra (Hikayat Inra Patra = Epopée Inra Patra), viết chung với G. Moussay et Abd. Karim. Kuala Lumpur, 1997
PO DHARMA, Akayet Dewa Mano (Hikayat Dewa Mano = Epopée Dewa Mano), viết chung với G. Moussay et Abd. Karim, Kuala Lumpur, 1998
PO DHARMA, Quatre Lexiques Malais-Cam anciens rédigés au Campa, Paris, 1999
PO DHARMA, Nai Mai Mang Makah – Tuan Puteri dari Kelantan – La princesse qui venait du Kelantan (viết chung với G. Moussay et Abd. Karim), 2000
PO DHARMA, Akayet Um Marup – Hikayat Um Marup – Epopée Um Marup, (viết chung với Nicolas Weber et Abdullah Zakaria Bin Ghazali), Kuala Lumpur, 2007.
PO DHARMA, "Deux princes malais au Campa. Leur rôle dans la vie socio-politique et religieuse de ce pays", in Le Monde indochinois et la Péninsule malaise, Kuala Lumpur, 1990, pp. 19-27.
PO DHARMA, “L'Insulinde malaise et le Campa”, in BEFEO, 87-1, 2000, pp. 183-192.
PO DHARMA, “Le Campa dans le chapitre XIV de la version Raffles, Ms 18 du Sejarah Melayu”, in Péninsule indochinoise et Monde malais (relations historiques et culturelles). Kuala Lumpur 2003, pp. 109-126.
PO DHARMA, “Les relations entre la littérature cam et la littérature malaise”, in D’un Orient l’Autre. Actes des troisièmes journées de l’Orient, Bordeaux, 2-4 octobre 2002, Paris-Louvain , 2005, p. 383-395.
1). Hai sai lầm cần chỉnh đốn
a). Hoàng hậu Tapasi
Tác giả viết: vua Champa là Indravarma III, đã cưới một công chúa Jawa, được ghi nhận với tên Bia Tapasi.
Đây là yếu tố sai lầm. Vì vua Champa cưới công chúa Jawa Tapasi là vua Jaya Sinhavarvarman tức là Chế Mân chứ không phải Indravarman III.
b). Hệ thống Po Acar
Tác giả viết: Về tầng lớp tu sĩ, có thể nói việc tạo nên một hế thống chức sắc từ Po Gru, Imam, Katip…của cộng đồng Chăm Awal là một khác biệt rất lớn với Islam giáo chính thống. Vì rằng, cộng đồng Islam giáo trên thế giới, không có một tầng lớp tu sĩ tách biệt làm nhiệm vụ trung gian để giao tiếp giữa các tín đồ với các vị thánh và thượng đế như Thiên chúa giáo hay Phật giáo…
Đây là quan điểm cần cứu xét lại. Vì rằng Hồi Giáo trên thế giới chia làm hai hệ phái rỏ rệt, đó là Sunni và Shiit. Phái Sunni chiếm tỷ lệ gần 90% tín đồ trên thế giới, tức là giáo phái hoàn toàn dựa vào “Sunna” của thiên sứ Mahomet. Phái thứ hai là Shiit xuất phát từ Iran nơi có mộ của Nabi Ali (con rể của Mahomet).
Hệ thống tổ chức Hồi Giáo trong hệ phái Shiit hoàn toàn khác biệt vối phái Sunni. Tất cả tín đồ Hồi Giáo của phái Shiit thường đặt dưới quyền điều hành và hướng dẩn bởi một cộng đồng chức sắc mang tên là Ayatollah, có hệ thống tổ chức và uy quyền riêng, có nhiệm vụ hướng dẫn, truyền bá, nghiên cứu, chuyển tải mọi triết lý và qui luật Hồi Giáo đến mọi người. Họ có qui chế riêng, thường tập trung trong những thánh đường riêng để nghiện cứu và tu niệm, và có đồng phục riêng. Những Ayatollah choàng khăn đen trên đầu là các vị tu sĩ xuất thân từ dòng họ của thánh Ali. Những Ayatollah mặc áo trắng là tu sĩ xuất than từ các bậc xã hội thông thường.
|
|
|
Po Acar |
Ayatollah khăn đen |
Ayatollah khăn trắng |
Champa là vương quốc theo Hồi Giáo, nhưng nằm trong hệ phái Shiit của Iran. Bằng chứng cụ thể là người Chăm Bani rất quan tâm đến sự tôn thờ thánh Ali và Fatimah. Đây là điềm chỉ của hệ phái Shiit. Thêm vào đó, người Chăm Bani còn có cộng đồng tu sĩ Po Acar mà vai trò cũng như hệ thống tổ chức rất gần gủi với hệ thống Ayatollah của Iran. Po Acar là các chức sắc Hồi Giáo có trách nhiệm hành lễ và tu niệm trong thánh đường và chuyễn đạt di sản Hồi Giáo đến mọi người, chứ không phải là nhân vật đại diện cho con chiên để tiếp xúc với thượng đế theo kiểu Thiên Chúa và Phật Giáo. Đây là bài viết của Jashaklikei:
|
Qom (Iran) là thánh đường tập trung nhiều tu sĩ Ayatollah nỗ tiếng |
|
Tu sĩ Ayatollah trong thánh đường Qom (Iran) có cuộc sống rất gần gủi với Po Acar |
|
Po Acar Chăm |
SỰ DU NHẬP HỒI GIÁO VÀO CHAMPA
Jashaklikei
http://jashaklikei.wordpress.com/
Trong quá khứ, vương quốc Champa, cũng như ngày nay là dân tộc Chăm, ngoài hai tôn giáo được du nhập từ Ấn Độ là Hindu giáo và Phật giáo, còn tiếp thu Islam giáo hay Hồi giáo từ các quốc gia Islam, mà đặc biệt là từ Thế giới Mã Lai, tạo thành cộng đồng người Chăm Awal (thường được gọi là Chăm Bàni) ngày nay. Cũng như Hindu giáo và Phật giáo, Islam giáo và cộng đồng Chăm Awal là kết quả của sự giao lưu văn hóa giữa Champa và thế giới Islam nói chung, mà trực tiếp nhất là thế giới Mã Lai.
Thông thường, các nhà nghiên cứu thường có hai chiều hướng để diễn giải về quá trình truyền bá Islam vào Champa. Thuyết đầu tiên cho rằng Islam được du nhập vào Champa khoảng thế kỷ X-XIII, hoặc xa hơn là thế kỷ XIV, như vậy theo thuyết này các nhà nghiên cứu cho rằng Islam giáo được du nhập vào Champa là kết quả của cuộc tiếp xúc trực tiếp với Islam ở Trung Đông hoặc Bắc Phi. Thuyết thứ hai, đưa ra mốc thời gian muộn hơn, khoảng thế kỷ XV-XVII, và theo đó Islam giáo được du nhập trực tiếp và đầy đủ nhất từ cuộc tiếp xúc với thế giới Mã Lai.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy, nhóm các nhà nghiên cứu ủng hộ ước thuyết thứ nhất gồm E. Aymonier, Ed. Huber, P. Ravaisse, G. Maspero…Đầu tiên, E. Aymonier, dựa vào một biên niên sử của hoàng gia Panduranga, đưa ra lập luận rằng từ năm 1000 đã có một ông vua Islam mang tên Po Awluah (Alla), vì vua đầu tiên của vương quốc phía nam này, nên từ đó ông nhận định Islam đã du nhập vào Champa sớm nhất là thế kỷ thứ X [1]. Tiếp đó, dựa vào tài liệu của Tống Sử, Ed. Huber [2] và G. Maspero [3], nhận thấy một lễ thức dùng trâu để tế lễ thần kèm theo lời khấn: “Allah Akhar”, từ đó hai tác giả nhận định có thể Islam đã được du nhập vào Champa từ thế kỷ IX. Bên cạnh đó, khoảng năm 1922, P. Ravaisse đã công bố hai bia ký chữ Arab, được một sĩ quan Pháp khai quật được ở miền Trung. Bản thứ nhất là một ngôi mộ của một người tên Abu Kamil có niên đại 1039. Tấm bia thứ hai, có niên đại khoảng 1025 – 1035, đó là một thông báo cho cộng đồng Islam giáo ở đây phải đối xử như thế nào với dân bản xứ khi tiếp xúc với họ. Từ kết quả này tác giả cũng nhận định, khoảng thế kỷ XI, đã có một cộng đồng Islam giáo ở Champa [4].
Mặc khác, từ thế kỷ thứ XIII, các nghiên cứu cho thấy rằng, vị vua Champa là Indravarma III, đã cưới một công chúa Jawa, được ghi nhận với tên Bia Tapasi (hoàng hậu Tapasi), từ đó các nhà nghiên cứu như G. Maspero cho rằng Islam giáo đã hiện hữu trong cung đình Champa từ thế kỷ XIII [5]. Hay một số ghi nhận rãi rác trong các thư tịch của Trung Hoa như Tống Sử nói đến những người sứ giả họ Bồ, Bố để chỉ người Arab đến từ Champa, cũng trong thế kỷ XIII…
Nhưng sau đó, lại xuất hiện một nhóm ý kiến khác cho rằng, chỉ từ thế kỷ XV – XVII, Islam mới du nhập mạnh mẽ vào Champa, và nó là kết quả của sự giao lưu tiếp xúc của người Champa với Thế giới Mã Lai, chứ không phải từ Trung Đông như trước đây. Haji Adi Taha cho rằng Islam giáo được du nhập vào Champa từ những thủy thủ Mã Lai mang đến, hoặc do chính người Champa trực tiếp học đạo từ người Malai. Trong thời điểm này, theo nhiều nguồn tư liệu, Champa và Mã Lai có những mối quan hệ hết sức thân thiết, trong đó có đề cập đến cuộc viếng thăm của vua Po Kabrah đến viếng thăm Malayu[6], hay sự kiện năm 1594 vua Champa còn giúp đở một tiểu quốc là Sultan chống quân Bồ Đầu Nha[7]; Cũng vào thế kỷ XVII, đặc biệt vào thời Po Rome (1627 – 1651), các văn bản Chăm như Damnay Po Rome, Damnay Po Tang Ahaok, Damnay Po Rayak (tiểu sử vua Po Rome, Po Tang Ahaok, Po Rayak)…ghi nhận các sự kiện quan trọng như sự kiện vua Po Rome sang viếng thăm Kelantan, kết hôn với công chúa Malai và học đạo Islam, ngoài ra Po Tang Ahaok, Po Rayak cũng được cử sang Mã Lai để học về tôn giáo, bùa phép, quân sự[8]. Bên cạnh đó, cũng trong thời điểm này, thông qua các biên niên sử hoàng gia, các gia phả hoàng tộc của Mã Lai như Hikayat Seri Kelentan (gia phả dòng họ tiểu vương Kelentan), Riwayat Kelentan Sejarah Melayu (lịch sử Malayu)…ghi nhận, nhiều vị tướng Mã Lai cũng đến Champa như Ungku Omar, Abdul Hmid, tại đây, họ đã dạy đạo Islam cho dân chúng địa phương…[9]. Theo các tác giả trên, sự du nhập mạnh mẽ của Islam giáo và sự hình thành cộng đồng Islam giáo bản địa ở Champa hay là người Chăm Awal ngày nay phải bắt đầ từ thế kỷ XV, đặc biệt thế kỷ XII và đó là kết quả của cuộc giao lưu văn hóa với Thế giới Mã Lai.
Về phía mình, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy một số điểm sau: theo nhóm nhận định thứ nhất thì từ thế kỷ X –XIII, Islam đã bắt đầu du nhập vào Champa, và đó là kết quả của cuộc tiếp xúc với các thương thuyền buôn bán của người Ảrập ở Trung Đông. Nhưng những cứ liệu đó rất tãn mạn, chưa cho thấy rằng trong thời kỳ này đã hình thành một cộng đồng Islam giáo bản địa như ta thấy sau này, chưa đủ để tạo nên một cộng đồng người Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Islam giáo) như ngày nay. Trước hết, hai văn bia được tìm thấy vào năm 1922, có niên đại thế kỷ XI, chỉ cho thấy sự tồn tại rãi rác của một cộng đồng Islam giáo từ Trung Đông trên con đường buôn bán trên biển của họ đến Champa. Hay sự kiện, vua Champa kết hôn với một công chúa Jawa chỉ cho thấy một mối giao thiệp tãn mạn bước đầu tiếp xúc với Islam giáo của Champa…Trên thực tế, hầu hết các tài liệu vẫn ghi nhận, trong thời kỳ này (thế kỷ X – XIII và XIII – XV), ảnh hưởng của Hindu giáo trong hoàng gia và dân chúng vẫn còn giữ vai trò thống trị trong hệ thống tín ngưỡng Champa.
Theo hướng giả thuyết số hai, xuất hiện sau này, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm ý kiến, nhận định xác đáng hơn. Như đã nói, từ những tư liệu hết sức phong phú ở cả Champa và Mã Lai cho thấy trong khoảng thế kỷ XV – XVII, Champa và Mã Lai đã có mối quan hệ thân thiết, đặc biệt là về tôn giáo, tín ngưỡng bằng chứng là vua Po Rome sang học đạo và gửi các cận thần của mình sang Mã Lai học về giáo lý, tín ngưỡng Islam, và các vị tướng, tư sĩ người Mã Lai cũng sang Champa để truyền đạo. Ngoài ra, sở dĩ chúng tôi tán đồng với nhóm giả thuyết này, vì chúng tôi cho rằng, cộng đồng người Chăm Awal ngày nay, có những nét sinh hoạt tôn giáo, phong tục, quan niệm của mình rất gần gũi với Islam giáo ở Mã Lai, hơn là Islam giáo ở Trung Đông. Biểu hiện cụ thể, điển hình là trong lễ hội Rija Proang của người Chăm, một nghi lễ quan trọng của cộng đồng Chăm Awal, có mối quan hệ rất gần gũi với lễ Mak Yong vủa Mã Lai, từ nguồn gốc lễ là xuất phát từ việc hai hoàng tử Mã Lai sang thăm Champa, đến việc hành lễ, đồ tế lễ, nhạc cụ trong lễ đều rất gần gũi với nhau, cho đến các bài khấn vái trong lễ cũng bằng tiếng Mã Lai…
Như vậy, chúng tôi nhận thấy Islam giáo chỉ du nhập mạnh mẽ vào Champa và tạo nên một cồng đồng Islam giáo bản địa, mà chúng ta gọi là người Chăm Awal hay Chăm Bàni (ảnh hưởng Islam giáo) trong khoảng từ thế kỷ XV đến XVII, đó là kết quả của một cuộc giao lưu văn hóa giữa vương quốc Champa với thế giới Mã Lai, chứ không phải là một sự du nhập trực tiếp từ Islam ở Trung Đông (Ả Rập) như các nhà nghiên cứu trước kia vẫn hiểu nhầm.
Trong quá trinh tiếp xúc va du nhập của Islam vào Champa, người Champa không tiếp thu một cách thụ động, hoàn toàn, mà luôn sáng tạo, chắt lọc và tiếp biến Islam giáo để phù hợp với tín ngưỡng bản địa và truyền thống dân tộc từ bao đời. Sự tiếp biến, sự sáng tạo đó trực tiếp biểu hiện qua hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo của cộng động người Chăm Awal ngày nay từ hệ thống tổ chức tông giáo, kinh kệ, đến nghi lễ, sinh hoạt đời sống của họ.
Đầu tiên về giáo luật Islam giáo, so với Islam giáo chính thống, cộng đồng người Chăm Awal co cách thức thực hiện giao luật riêng của mình, không phải theo những khuôn phép, cách thức thực hành giáo điều, giáo lý như cộng đồng Islam chính thống. Cụ thể, theo tín điều bắt buộc của Islam, các tín đồ phải thực hiện năm nền tảng bắt buộc là: As Shahadah (tuyên thệ tin tưởng tuyệt đối vào Alla), As Solah (hành lễ ít nhất năm lần một ngày), Az Zakat (bố thí), As Siyam (nhịn tháng chay Ramadan), Hahi (hành hương đến thánh địa Mecca.
Năm điều này là bắt buộc với tín đồ Islam chính thống. Nhưng người Chăm Awal, dù cũng ảnh hưởng Islam, những lại không phải tuyệt đối thực hiện như trên, trong đó nếu như theo chính thống họ phải tin tưởng tuyệt đối vào Alla, không được thờ cúng ai khác ngoài Alla, thì người Chăm Awal lại chỉ coi Alla là hiện thân của một vị thần cao nhất chứ không phải duy nhất, dưới ngài người Chăm Awal còn thờ Mohammad, các vị vua có công, các vị thần dân gian…Họ cũng không phải cầu nguyện năm lần mỗi ngày, không phải thực hiện bố thí và hành hương đến Mecca, trong tháng nhịn chay Ramadan không phải nhịn ăn vào ban ngày, mà thay vào đó là giới tu sĩ đại diện thực hiện nhin ăn cho cộng đồng…Ngoài ra, một điều mà cộng đồng Islam chính thống không thực hiện, đó là tín ngưỡng thờ cúng ông bà tổ tiên, mà ngày nay trong cộng đồng Awal vẫn bảo tồn và thực hiện như lễ cúng gia tiên, tảo mộ vào dịp Ramưwan…
Về tầng lớp tu sĩ, có thể nói việc tạo nên một hế thống chức sắc từ Po Gru, Imam, Katip…của cộng đồng Chăm Awal là một khác biệt rất lớn với Islam giáo chính thống. Vì rằng, cộng đồng Islam giáo trên thế giới, không có một tầng lớp tu sĩ tách biệt làm nhiệm vụ trung gian để giao tiếp giữa các tín đồ với các vị thánh và thượng đế như Thiên chúa giáo hay Phật giáo…Islam giáo chính thống chỉ đặt ra một số chức vụ để hướng dẫn tín đồ thực hiện lễ nghi ở tín đường, kêu gọi tín đồ hành lễ…Nhưng trong cộng đồng người Chăm Awal lại hình thành một hệ thống chức sắc giữ vai trò như các tăng lữ của thiên chúa giáo hay nhà sư của Phật giáo, họ là người thực hiện các lễ hội, cũng như đám cưới, ma chay cho cộng đồng. Họ được gọi chung là Acar và chia ra nhiều thức bật từ Po Grù (cả sư), Imam, Khotíp…chính họ thay thế cho cộng đồng thực hiện lẽ nhịn ăn vào tháng Ramadan, chỉ có họ mới thực hiện được các nghi lễ của cộng đồng, hay lễ cưới hỏi, ma chay…
Ngoài ra, một yếu tố khác thể hiện rõ nét sự ảnh hưởng của truyền tho6gn1 bản địa cảu dân tộc vẫn còn tồn tại đó là truyền thống mẫu hệ. Đối với cộng đồng Islam chính thống trên thế giới, họ luôn theo phụ hệ, trong kinh Koran còn có những tín điều phân biệt với phụ nữ, đề cao vai trò của người đàn ông, ví dụ như tục đa thê của người Islam. Trong khi đó, cộng đồng Chăm Awal dù ảnh hưởng Islam giáo, nhưng vẫn theo mẫu hệ, vai trò của người phụ nữ luôn được coi trọng: vợ bắt chồng, trai ở rể, con cái chết phải trôn ở mộ mẹ…Đặc biệt tính mẫu hệ thể hiện rõ sự khác biệt trong việc thực hiện hai nghi lễ trưởng thành cho nam và nữ của Islam giáo chính thống với Chăm Awal. Cồng đồng Islam trên thế giới coi trọng hơn việc thực hiện lễ trưởng thành cho con trai (Khotah) hơn lễ trường thành cho con gái (Karơh), trong khi cộng đồng Chăm Awal thì ngược lại coi trong nghi thức Karơh hơn…
Tóm lại, dù đã có những cuộc tiếp xúc với Islam giáo từ Trung Đông từ thế kỷ X –XIII, những phải từ thế kỷ XV, đặc biệt là XVII, khi Champa tiếp xúc và quan hệ hết sức mạnh mẽ với Mã Lai, thì Islam giáo mới chính thức du nhập vào Champa, mà hệ quả là sự ra đời của một cộng đồng người Chăm ảnh hưởng Islam giáo, cộng đồng Chăm Awal hay Chăm Bàni. Trong quá trình giao lưu, tiếp thu Islam giáo, người Champa đã biết chọn lọc, tiếp biến và dung hòa Islam giáo với tín ngưỡng bản đại của mình như duy trì truyền thống mẫu hệ, tập tục thờ cúng tổ tiên, hình thành một hệ thống tu sĩ, thực hiện giáo luật một cách hạn chế. Chính những điểm đó đã tạo nên một nét đặc biệt riêng có, không trộn lẫn vào đâu của Islam giáo ở vương quốc Champa trước kia và cộng đồng người Chăm sau này.
[1] Bá Trung Phụ: Đạo Bàni Của Người Chăm Ở Việt Nam, Tạp chí Ngiên Cứu Tôn Giáo, số 12 – 2007, tr 54.
[2] Như trên.
[3] Sakaya (2013): Tiếp Cận Một Số Vấn Đề Văn Hóa Champa, Nxb Tri Thức, HN, tr 96.
[4] P-Y. Manguin (1979): “L’Introduction de l’Islam au Campa, BEFEO LXVI, P 255 – 257.
[5] Sakaya (2013): sđd, tr 96.
[6] Po Dharma (1999): Quatre Lexiques malais – Cam anciens, Paris: EFEO, tr 5.
[7] P-B. Lafont (1988): On relations between Champa and Southeast Asia, trong Proceedings of the Seminar On Champa, Paris, tr 65 – 75.
[8] Sakaya (2013): Sđd, tr 592.
[9] Abdullah Zakaria bin Ghazali (2003): Historical And Cultural relations between The Malay World And Indochina In Malay, đăng trong Pinisule Indochioise Et Monde Malais, BFEO, Kuala Lumpur, tr 169. Dẫn theo Skaya (2013), sđd, 626. |