Trả lời cho Đắc Văn Kiết về chính sách VNCH đới với người Chăm và Tây Nguyên |
Written by BBT Champaka.info | ||||||||||||
Saturday, 06 August 2016 14:11 | ||||||||||||
Ngày 3-8-2016, Linh Dang có chia sẻ trên facebook bài viết của Đắc Văn Kiết mang tựa đề: “Dân Tộc Bản Địa Việt Nam qua Hiến Pháp …Việt Nam Cộng Hòa”. Đây là bài viết có nội dung đứng đắng và nghiêm túc liên quan đến qui chế đặt biệt mà chính quyền Sài Gòn đã ban cho một số dân tộc thiểu số trong đó có dân tộc Chăm và Tây Nguyên dưới thời đệ nhị Việt Nam Công Hoà. Nhưng trong bài viết này có một số điểm sai lầm, thiếu phần chính xác và không trung thực, cần nên chỉnh sửa lại.
1). Tác giả viết rằng: Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 đã khích lệ nhiều Quốc gia trên thế giới ban hành chánh sách nâng đỡ đặc biệt đối với các sắc tộc thiểu số bản địa tại nước họ. Đây chỉ là sự suy đoán của tác giả thì đúng hơn, vì Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền gồm có 30 điểu khoản không bao giờ nhắc đến vần đề “sắc tộc thiểu số” hay “bản địa”. Có chăng tác giả nhằm lẫn với Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Dân Tộc Thiểu Số ban hành vào ngày 18-12-1992.
2). Tác giả viết rằng: Hiến pháp nền đệ nhị VNCH đã minh định rõ ràng về quyền của các sắc tộc thiểu số bản địa qua các điều 02, điều 24, điều 66, và điều 97. Tác gỉa còn giải thích thêm “Các sắc tộc thiểu số VN " hay còn gọi là " Đồng bào thiểu số VN " ghi trong hiến pháp VNCH chính là " Dân Tộc Bản Địa VN ". Đây là lối suy luận mang tính cá nhân của tác giả mà thôi, vì hiến pháp VNCH không bao giờ xử dụng thuật ngữ “bản địa” trong văn kiện pháp lý này. Hai cụm từ mà hiến pháp VNCH thường lập đi lập lại, đó là: “đồng bào thiểu số” và “sắc tộc thiểu số”, nhưng không đưa ra một khái niệm rỏ ràng để định nghĩa thế nào là ý nghĩa của cụm từ “thiểu số” để rồi từ đó người ta không thể trả lời thế nào là sự khác biệt trong hiến pháp VNCH về quyền cơ bản của con người giữa những người thiểu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam như người Hoa, Ấn, Nùng, Tày, Mường, Tháil, người Tây Nguyên, Chăm và Khmer Krom ?.
3). Tác giả viết: Đây là phương pháp lý luận phi lịch sử, mang nội dung mâu thuẩn, kỳ thị chủng tộc và đi ngược lại với Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Dân Tộc Bản Địa ra đời 2007. Khmer Krom là nhóm người xuất thân từ quê cha đất tổ của họ ở đồng bằng sông Cửu Long trước ngày Nam Tiến của dân tộc Việt, chứ không phải từ quốc gia khác sang định cư trên lãnh thổ Việt Nam. Chính vì nguyên nhân đó, VNCH không có quyền xếp loại Khmer Krom vào thành phần dân tộc thiểu số như người Ấn và Hoa, tức là nhóm người từ nước khác du nhập vào Việt Nam.
4). Tác giả viết: Người Khmer Krom không được hưởng qui chế riêng biệt qua sắc luật 033/67 dành cho " Các Sắc tộc bản địa Việt Nam " như Thượng Tây nguyên miền Nam; Thượng di cư từ Bắc vào, và sắc tộc Chăm. Nếu nói về nguồn gốc lịch sử, thì người Thượng di cư từ Bắc vào (Nùng, Tày, Mường, Thái) không thể là dân tộc bản địa của VNCH được. Vì họ là người sinh đẻ trên khu vực nằm ở miền bắc, thuộc một quốc gia khác mang tên Cộng Hoà Xã Hội Việt Nam. Người Khmer Krom xuất thân từ quê hương thân thương của họ ở đồng bằng sông Cửu Long, nhưng không có quyền hưởng “qui chế sắc tộc” của VNCH, trong khi đó người Nùng, Tày, Mường, Thái là dân tộc từ miền Bắc di cư vào nam, nhưng được vinh dự hưởng qui chế sắc tộc này. Chính đó là những mâu thuẩn mang màu sắc chính trị trong hiến pháp VNCH.
5). Tác giả viết rằng: Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Dân Tộc Bản Địa ra đời vào ngày 13/9/2007 gồm tất cả 31 điều khoản. Câu này phải đính chính lại: Tuyên Ngôn về Quyền của Dân Tộc Bản địa gồm có 46 điều khoản chứ không phải 31 điều khoản. Có chăng tác giả không đọc nội dung của Tuyên Ngôn này?
6). Tác giả viết rằng: Mới đây, Tuyên ngôn về quyền của Dân tộc Bản địa ra đời 2007 gồm tất cả 31 [ phải sửa lại 46] điều khoản tổng quát. Theo tôi, 31 [phải sửa lại 46] điều khoản đó cũng gói ghém lại trong các điều 02, 24, 66 và 97 của Hiến Pháp VNCH ngày 01/4/1967, cũng như trong sắc luật 033/67 của VNCH mà thôi. Đây là phong cách lý luận nhằm tôn vinh chế độ VNCH thì đúng hơn. Vì rằng Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Dân Tộc Bản Địa tập trung gần 15 trang giấy bao gồm 46 điều khoản cấu thành một yếu tố pháp lý để bảo vệ quyền cơ bản của người bản địa, đó là quyền “tự quyết” và quyền “tự quản” trên “lãnh thổ đất đai” có biên giới riêng, chứ không phải quyền được hưởng vài qui chế lặt vặt như Bộ Phát Triển Sắc Tộc, Hội Đồng Sắc Tộc, Ty Phát Triển Sắc Tộc, Trường Trung Học, v.v. mà chế độ VNCH đã dành cho người Chăm và Tây Nguyên. Đứng trên phương diện lịch sử mà phân tích, các điều 02, 24, 66 và 97 của Hiến Pháp VNCH chỉ là những điều khoảng gói ghém lại những gì đã ghi trong qui chế “Dân Tộc Thượng Miền Nam Đông Dương” (Populations Montanardes du Sud-Indochinois, viết tắt là PMSI) do chính quyền Pháp ký tại Saigon ngày 27-5-1946, sau này trở thành qui chế “Xứ Thượng Miền Nam” (Pays Montagnards du Sud, viết tắt là PMS), còn gọi là “Hoàng Triều Cương Thổ” do hoàng đế Bảo Đại ký tại Đà Lạt ngày 21-5-1951 và trong Hiệp Ước Harman liên quan đến qui chế đặc biệt dành cho dân tộc Chăm ký vào ngày 25-8-1883 tại Huế dưới thời Pháp thuộc.
7). Tác giả viết: Những hoài bão và ước vọng của các anh em Sắc Tộc Bản Địa đang thiết tha vận động ở Liên Hiệp Quốc về " quyền của Sắc Tộc Bản Địa " cũng không sai và đáng trân trọng, vì những " quyền lợi " hay gọi là những " đặc ân " đối với sắc dân thiểu số Bản địa qua Hiến Pháp ngày 01/4/1967 của nền đệ nhị VNCH. Lời kêu gọi của Đắc Văn Kiết ủng hộ cho cuộc đấu tranh của anh em Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom trên diễn đàn Liên Hiệp Quốc là hành động đáng trân trọng. Nhưng mục tiêu đấu tranh của họ không liên hệ gì với những “đặc ân” đối với “sắc dân thiểu số qua Hiến Pháp ngày 01/4/1967 của nền đệ nhị VNCH” như Đắc Văn Kiết nêu ra.
8). Tác giả viết: Tôi đã một lần nói với một bác sĩ Việt Nam có tiếng tăm ở Hoa Kỳ rằng: " Dân Tộc Bản Địa Champa " đâu cần phải xin " Tự Trị ". Để khi nào Việt Nam thực sự văn minh, tiến bộ và giàu mạnh như nước Mỹ, Úc, Canada v. v... thì họ tự động cho "Tự Trị " thôi. Đây là lời nhận định mang tính tiêu cực, không phù hợp cho lắm với những tiến trình đấu tranh đòi quyền dân tộc bản địa trên thế giới nói chung và trong khu vực nói riêng. Đây là hai thí dụ điển hình: Mã Lai là quốc gia độc lập vào năm 1957 có tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và đa chủng tộc, rất gần gủi với mô hình xã hội của Việt Nam. Tại sao Mã Lai không ngần ngại ban cho người dân bản địa ở hai khu vực Sabah và Sarawak vào năm 1963 quyền “tự trị”, có lãnh thổ riêng, quốc hội, thủ tướng và bộ trưởng riêng, ngoại trừ bộ quốc phòng, an ninh và ngoại giao nằm trong tay của chính phủ liêng bang.
Phi Luật Tân (Philippines) cũng là quốc gia có tiềm năng kinh tế, tài nguyên thiên nhiên và đa chủng tộc so với Việt Nam nhưng còn nghèo nàn hơn Việt Nam là khác. Để giải quyết những xung đột giữa chính quyền trung ương với dân tộc bản xứ, Cộng Hoà Phi Luật Tân (Philippines) chấp nhận trao cho dân tôc bản địa Bangsamoro quyền tự trị ở khu vực Mindanao, có quốc hội riêng, thủ tướng riêng để thực thi quyền tự quyết và tự quản trong khu vực của họ phù hợp với hiến pháp của quốc gia này. Tóm lại, công nhận quyền tự quyết và tự quản của một dân tộc bản địa phù hợp với Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc không phát xuất từ yếu tố “văn minh, tiến bộ và giàu mạnh” của một quốc gia như tác giả Đắc Văn Kiết đã nêu ra mà là phát xuất từ hai yếu tố:
• Yếu tố thứ nhất: chủ nghĩa chính trị Yếu tố này tuỳ thuộc vào chính sách của chế độ có chấp nhận nói lên sự thật lịch sử của người bản xứ và tôn trọng quyền cơ bản của người bản địa hay không? Kể từ đó, ban cho người bản địa quyền “tự quyết và “tự quản” phù hợp với Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc không liên hệ gì đến mức độ “văn minh, tiến bộ và giàu mạnh” của quốc gia nơi có dân bản địa, mà là tuỳ thuộc vào quan điểm và nhận định của các nhà lãnh đạo của quốc gia này có lương tâm để chia sẽ những thống khổ của dân tộc bị đô hộ hay không?
Mã Lai và Phi Luật Tân chỉ là hai quốc gia đang phát triển như Việt Nam, nhưng đã chấp nhận quyền của dân tộc bản địa trên quốc gia mình là bằng chứng điển hình. Và lời tuyên bố của bà Thái Anh Văn, Tổng Thống Đài Loan, nhân dịp lễ “xin lỗi” dân tộc bản địa ngày 1-8-2016 cho rằng “Sự thành công của một dân tộc [đa số] không thể xây dựng trên sự đau khổ của dân tộc khác [ám chỉ người bản địa]” là một tấm gương sáng để cho các quốc gia láng giềng noi theo, trong đó có Việt Nam.
• Yếu tố thứ ha: ý thức hệ đấu tranh của dân bản xứ Yếu tố này tuỳ thuộc vào vai trò và nghĩa vụ của dân tộc bản địa đối với quyền cơ bản của mình có ghi rỏ trong Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc. Các tổ chứx quốc tế không thể buộc nhà nước Việt Nam phải thự thi những điều khoản trong Tuyên Ngôn dành cho người bản xứ, nếu 3 dân tộc bản địa Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom không nhận lãnh vai trò và nghĩa vụ đấu tranh để đòi quyền lợi của mình. Cuộc đấu tranh của dân tộc bản địa ở Mã Lai và Phi Luật Tân đã mang lại thành công không phát xuất từ lòng ưu ái của chính quyền đối với dân bản xứ, mà là phát xuất từ ý thức hệ đấu tranh của người bản địa tại hai quốc gia này qua phương pháp khác nhau.
Cuộc cách mạng đòi quyền bản địa ở Phi Luật Tân là cuộc đấu tranh bạo động, dùng súng đạn để làm công cụ chiến đấu, đã gây ra hơn 100 ngàn người thiệt mạng kể từ nằm 1970, trong khi đó người bản địa Mã Lai không dùng bạo lực để đòi quyền lợi của mình, mà là ý thức hệ đoàn kết giữa những người bản xứ qua các tổ chức hội đoàn và đảng phái chính trị để làm công cụ đấu tranh. Ba đảng phái của dân bản xứ ở Mã Lai mang tên là đảng “Liên Minh Dân Tộc Bản Địa Truyền Thống” (United Traditional Bumiputera), đảng “Liên Minh Dân Tộc Sarawak” (Sarawak’s United People Party) và đảng “Liên Minh Dân Tộc Sabah” (United Sabah Party) chiếm 20 ghế trong quốc hội của Liên Bang Mã Lai là động cơ chính yếu trong cuộc đấu tranh đòi quyền bản địa tại quốc gia này. Các tổ chức Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom đang đấu tranh đòi quyền bản địa không thể làm gì được trức sức ép của chế độ cộng sản hôm nay, nếu không có sự đồng tình và làn sóng ủng hộ của các tầng lớp trí thức, các sinh viên và thanh niên trong và ngoài nước. Lịch sử đấu tranh của Fulro là thí dụ điển hình. Cũng nhờ sự vùng dậy của phong trào Fulro vào năm 1964, chính quyền Sài Gòn phải chấp nhận ban hành những qui chế đặt biệt dành cho dân tộc Chăm và Tây Nguyên. Sau 1975, tổ chức Fulro bị Khmer Đỏ tiêu diệt không còn hoạt động nữa. Kể từ đó chế độ Hà Nội không ban cho người Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom một qui chế đặt biệt gì và vẫn chưa công nhận người Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom là thành phần bản địa, mặt dù Việt Nam là quốc gia đã ký trên Tuyên Ngôn về Quyền của Dân Tộc Bản Địa.
Kết Luận
Phải công nhận rằng bài viết của Đắc Văn Kiết có nội dung nghiêm túc, đã mang lại cho độc giả nhiều tin bổ ích về chính sách của VNCH đối với dân tộc Chăm và Tây Nguyên. Nhưng mục tiêu của bài này chỉ nhằm chứng minh rằng người Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom là “dân tộc bản địa” đã được công nhân trong hiến pháp của VNCH, không cần phải đòi hỏi nữa. Tiếc rằng đây chỉ là sự suy đoán cá nhân của tác giả, vì hiến pháp VNCH chỉ xếp người Chăm và Tây Nguyên là thành phần “đồng bào thiểu số” hay “sắc tộc thiểu số”, chứ không bao giờ nhắc đến “đồng bào bản địa” hay “sắc tộc bản địa” như Đắc Văn Kiết đưa ra. Và trong bài viết, Đắc Văn Kiết còn có chiều hướng tôn vinh chế độ VNCH đã ban cho dân tộc Chăm và Tây Nguyên nhiều ân huệ quí báu nào là hình thành Bộ Phát Triển Sắc Tộc, Ty Phát Triển Sắc Tộc, Hội Đồng Sắc Tộc, Trường Trung Học, Ký Túc Xá, v.v. nhưng tác giả không bao giờ nhắc đến công lao của các chiến sĩ Fulro đã hy sinh xương máu kể từ năm 1964 trong cuộc đấu tranh yêu cầu chính quyền Sai Gòn phải trao trả lại quyền tự trị của hai dân tộc này phù hợp với qui chế Hoàng Triều Cương Thổ ký vào năm 1951 và Hiệp Ước Harman vào năm 1883. Không có phong trào đấu tranh của Fulro, thì VNCH không bao giờ ban những ân huệ đó cho đổng bào Chăm và Tây Nguyên như Đắc Văn Kiết đưa ra. Vì rằng, nhà viết sử phải có nghĩa vụ tôn trọng sự thật của lịch sử chứ không có quyền mếu mó nội dung những gì đã xảy ra trong lịch sử. Muốn cho nhà nước Việt Nam thực thi Tuyên Ngôn của Liên Hiệp Quốc về Quyền của Dân Tộc Bản Đia, thì dân tộc Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom không còn giải pháp khác, ngoài việc dấn thân vào cuộc vận động đấu tranh để đòi quyền lợi của mình. Và cuộc đấu tranh này có thành công hay không, nó tuỳ thuộc hoàn toàn vào ý thức hệ đoàn kết trong nội bộ của 3 dân tộc này; tuỳ thuộc vào sức hy sinh của từng dân tộc và tuỳ thuộc vào chiến lược đưa ra làm thế nào để nhà nước Việt Nam công nhận người Chăm, Tây Nguyên và Khmer Krom là thành phần dân tộc bản địa chứ không phải là tập thể dân tộc thiểu số như chính quyền Hà Nội thường đưa ra quảng cáo trong và ngoài nước.
Sau đây là nguyên văn bài viết của Đắc Văn Kiết
Dân Tộc Bản Địa Việt Nam qua Hiến Pháp ngày 01-4-1967 của nền Đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa Tác giả: Đắc Văn Kiết
Điều 66:
Qua các điều khoản Hiến pháp ngày 01/4/1967 /VNCH đã minh định nêu trên; trước khi nói đến : " Dân Tộc Bản Địa Việt Nam, " tôi xin trình bày các " cụm từ " sau đây :
Thành phần thứ hai: Họ là những người thuộc các sắc dân khác nhau như: Mỗi Sắc tộc trên đều có một nguồn cội văn hóa truyền thống riêng, nguồn gốc lịch sử riêng,... Nhưng tổ tiên của những thành phần này đã có mặt tại giải đất Việt Nam ngày nay từ lâu đời, có công khai sơn phá thạch, và sinh cư ở đây trước người Việt Nam đến. Thành phần này gọi là " Đồng bào thiểu số " hay " Các Sắc tộc thiểu số VN " và họ chánh là " Dân Tộc Bản Địa Việt Nam. " Cho dù dưới thời Việt Nam Cộng Hòa vẫn chưa nói đến cụm từ " Dân Tộc Bản Địa " vì sự nhậy cảm liên quan đến " Tự Trị ", chánh phủ không muốn có tình trạng " một quốc gia trong một quốc gia ". Tuy nhiên, qui chế riêng biệt qua sắc luật 033/67 dành cho thành phần này như một hình thức " Tự quản " về nhiều lãnh vực trong sinh hoạt quốc gia qua những quyền lợi đặc biệt của " Dân Tộc Bản Địa " sau đây:
Về quyền lập pháp:
|